Chú thích Đỗ_Cao_Trí

  1. Đệ Tam Quân khu, nguyên là phần lãnh thổ phía Bắc được tách ra của Đệ Tứ Quân khu, gồm các tỉnh Bắc Cao nguyên và Bắc Duyên hải Trung phần thành lập ngày 26/10/1956 (phần lãnh thổ phía Nam còn lại gồm các tỉnh Nam Cao nguyên và Nam Duyên hải Trung phần là Đệ Tứ Quân khu mới). Ngày 1 tháng 10 năm 1957, hai Quân khu Đệ Tam và Đệ Tứ hợp lại trở thành Quân đoàn II và Vùng 2 Chiến thuật. Tướng Đỗ Cao Trí đã hai lần phục vụ ở Quân đoàn II:
    - Lần thứ nhất: Đại tá Tư lệnh, khi còn là Đệ Tam Quân khu (1956-1958).
    - Lần thứ hai: Trung tướng Tư lệnh (1963-1964).
  2. Tướng Đỗ Cao trí đã hai lần phục vụ ở Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật:
    - Lần thứ nhất: Đại tá Tham mưu trưởng, rồi Tư lệnh phó (1959-1961).
    - Lần thứ hai: Trung tướng Tư lệnh (1963).
  3. Khóa Đỗ Hữu Vị trường Sĩ quan Nước Ngọt, còn gọi là khóa 2 Võ bị Liên quân Viễn Đông, vì trường Võ bị Liên quân Viễn Đông đào tạo sĩ quan khóa 1 Nguyễn Văn Thinh ở Đà Lạt. Sau đó để cơ sở lại cho trường Võ bị Quốc gia Việt Nam (từ Huế chuyển về Đà Lạt) và di chuyển xuống Vũng Tàu đặt cơ sở của trường tại khu Nước Ngọt, lấy tên là trường Sĩ quan Nước Ngọt, tiếp tục đào tạo sĩ quan khóa 2 Đỗ Hữu Vị.
  4. Ngày 8 tháng 5 năm 1951 Đại đội Nhảy dù Biệt lập được trang bị và bổ sung hoàn chỉnh cho một đơn vị cấp Tiểu đoàn và trở thành Tiểu đoàn 1 Nhảy dù.
  5. Tiểu đoàn 19 Việt Nam thành lập ngày 1 tháng 1 tháng 1951 tại Bạc Liêu, đến đầu năm 1954 làm nòng cốt để thành lập Tiểu đoàn 6 Nhảy dù.
  6. Trung tâm Huấn luyện Chiến thuật được thành lập tháng 6 năm 1952 tại Hà Nội. Sau Hiệp định Genève 1954 di chuyển vào Nam đặt cơ sở ở Tân Bình, Gia Định đổi tên thành trường Đại học Quân sự. Năm 1960 di chuyển lên Đà Lạt đổi là trường Chỉ huy và Tham mưu. Cuối năm 1971 di chuyển lần cuối về đặt cơ sở tại Long Bình, Biên Hòa.
  7. Ngày 29 tháng 9 năm 1954, Quân đội Pháp bàn giao Liên đoàn Không vận số 3 Nhảy dù lại cho Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ngay sau đó đơn vị này được cải danh thành Liên đoàn Nhảy dù và Thiếu tá Đỗ Cao Trí là sĩ quan người Việt đầu tiên chỉ huy Binh chủng Nhảy dù cấp Liên đoàn.
    Thời điểm này, các sĩ quan chỉ huy Tiểu đoàn trực thuộc Liên đoàn:
    -Tiểu đoàn 1: Đại úy Vũ Quang Tài (sinh năm 1920 tại Móng Cái, tốt nghiệp Trường Võ bị Địa phương Nam Việt (Vũng Tàu). Sau cùng là Đại tá Cục trưởng Cục Xã hội thuộc Tổng cục Tiếp vận).
    -Tiểu đoàn 3: Đại úy Phan Trọng Chinh.
    -Tiểu đoàn 5: Đại úy Trịnh Xuân Nghiêm (sinh năm 1929 tại Tuyên Quang, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Tham mưu trưởng trường Chỉ huy và Tham mưu).
    - Tiểu đoàn 6: Đại úy Thạch Con (sinh năm 1925 tại Sóc Trăng, tốt nghiệp khóa 3 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Trung tá. Giải ngũ năm 1965).
    - Tiểu đoàn Trợ chiến: Đại úy Nguyễn Thọ Lập (sinh năm 1918 tại Biên Hòa, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 Bộ binh. Giải ngũ năm 1973).
  8. Trung tá Đặng Văn Sơn (Sinh năm 1916 tại Huế. Tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan Pháp. Sau cùng là Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh. Giải ngũ năm 1964).
  9. Thiếu úy Trần Trọng Ngà sinh năm 1944 tại Thủ Đức, Gia Định. Sau cùng mang cấp bậc Hải quân Thiếu tá, chức vụ Hạm phó.
  10. 1 2 Cùng tử nạn với tướng Đỗ Cao Trí còn có các sĩ quan tham mưu trong Bộ chỉ huy Tiền phương của Quân đoàn III:
    -Trung tá Đặng Quốc Sĩ (Sinh năm 1932 tại Ninh Bình, tốt nghiệp khóa 9 Võ bị Đà Lạt. Nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm Hành quân Quân đoàn III, được truy thăng Đại tá).
    -Thiếu tá Trần Minh Châu (Sinh năm 1933 tại Mỹ Tho, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt. Nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Truyền tin Quân đoàn III, được truy thăng Trung tá).
    -Đại úy Nguyễn Anh Tuấn (Sinh năm 1935 tại Vĩnh Long, tốt nghiệp khoa 19 Võ bị Đà Lạt. Nguyên là Sĩ quan Tùy viên của tướng Trí, được truy thăng Thiếu tá).
    -Đại úy Phan Tất Đắc (truy thăng Thiếu tá).
    -Thiếu úy Nguyễn Cân (truy thăng Trung úy).
    -Ngoài ra còn có: Hai Hạ sĩ quan và 1 phóng viên chiến trường người Việt, hai Sĩ quan Phi công, hai Hạ sĩ quan xạ thủ người Mỹ. Tổng cộng là 13 người.